Tại hội thảo, Phó Giáo sư, TS. Trần Tuấn Anh - Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam cho biết, tai biến thiên nhiên, trong đó có tai biến địa chất như trượt lở, nứt đất, sụt lún, động đất, sạt lở, xói lở bờ sông, bờ biển đã và đang gây những thiệt hại rất lớn về người và tài sản, ảnh hưởng lớn tới hoạt động kinh tế, giao thương. Gần đây, chỉ trong tháng 7-8/2023, hàng loạt các vụ trượt lở, sạt trượt, nứt đất đã xảy tại Tây Nguyên. Tại Đồng bằng Sông Cửu Long, từ nhiều năm qua, tình hình sạt lở bờ sông, xói lở bờ biển đang diễn biến rất phức tạp và có xu hướng gia tăng cả về phạm vi và quy mô.
Lãnh đạo Bộ Khoa học và Công nghệ và Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam trao đổi, ghi nhận ý kiến của các nhà khoa học
Theo TS. Trần Tuấn Anh, trước những diễn biến trượt lở, nứt đất tại Tây Nguyên, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã phối hợp Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức đoàn công tác nhằm khảo sát, đánh giá sơ bộ hiện trạng, nguyên nhân, làm căn cứ cho các đề xuất, định hướng tiếp theo. Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã có những nghiên cứu tiên phong đánh giá về vấn đề thiên tai từ những năm 1980 của thế kỷ trước. Qua hơn 30 năm nghiên cứu, đã xây dựng và phát triển hệ thống phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu nhằm đánh giá nguy cơ tai biến, giám sát và tiến tới cảnh báo sớm, cảnh báo gần với thời gian thực.
Tham dự hội thảo, các diễn giả đã trình bày nhiều tham luận về kết quả khảo sát đánh giá hiện trạng tình hình trượt lở, sạt lở khu vực phía Nam Tây Nguyên thuộc các tỉnh Lâm Đồng, Đắk Nông; các kết quả nghiên cứu về tình hình sạt lở sông, biển ở Đồng bằng Sông Cửu Long, thực trạng, nguyên nhân, giải pháp và báo cáo tổng quan tình hình nghiên cứu các thiên tai địa chất trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Nhiều tham luận chỉ ra rằng, vấn đề trượt, sạt lở đất ở Tây Nguyên, sạt lở sông, biển ở đồng bằng sông Cửu Long bên cạnh việc liên quan trực tiếp đến rất nhiều yếu tố tự nhiên như địa hình, địa mạo, thủy thạch động lực, khí tượng thủy văn và biến đổi khí hậu... còn có yếu tố tác động từ phía con người trong các hoạt động dân sinh. Việc tổ chức thực hiện các nghiên cứu thiên tai cần theo cách tiếp cận từ khái quát đến chi tiết, từ quy mô quốc gia, đến vùng miền, cấp huyện, khu dân cư, công trình với các cách tiếp cận, hệ phương pháp và mục tiêu khác nhau tương ứng với từng quy mô; tăng cường vai trò phối hợp của các bộ, ngành: Khoa học và Công nghệ, Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; sự phối hợp giữa các chương trình khoa học, công nghệ trọng điểm và sự phối hợp liên ngành và đa ngành của các chuyên môn khoa học trong nghiên cứu thiên tai.
Nêu tình trạng sạt lở sông, biển ở vùng Đồng bằng Ssông Cửu Long hiện nay, GS.TS Trần Đình Hoà - Viện Khoa học Thuỷ lợi Việt Nam - Chủ nhiệm Chương trình Nghiên cứu khoa học công nghệ phục vụ bảo vệ môi trường, phòng tránh thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu cho biết, tình trạng sạt lở hệ thống sông rạch, xói lở bờ biển đang diễn ra trên hầu hết các tỉnh, thành phố trong vùng với mức độ ngày càng trầm trọng và phức tạp hơn, gia tăng cả về phạm vi và cường độ. Đến thời điểm hiện tại trên địa bàn 13 tỉnh khu vực ĐBSCL có tổng 596 vị trí sạt lở bờ sông, bờ biển với chiều dài hơn 804.4km (bờ sông 548 điểm/ 582.7 km, bờ biển là 48 điểm/221,7km).
GS.TS Trần Đình Hoà cho rằng, xem xét thực tế hiện nay trên toàn lưu vực, vấn đề sạt lở đất trên hệ thống sông, kênh, bờ biển ở Đồng bằng Ssông Cửu Long là xu thế không thể đảo ngược. Các kết quả nghiên cứu đã chỉ ra, Đồng bằng Ssông Cửu Long là một trong những đồng bằng phù sa non trẻ nhất trên thế giới. Vì vậy, sự ổn định của nền địa chất rất hạn chế. Tầng đất mặt chủ yếu là đất phù sa dạng mùn, được hình thành từ lớp thực bì rất dày bị phân hủy. Ở các khu vực ven sông là dải phù sa ngọt tơi xốp trong khi càng ra phía biển là vùng đất giồng, cấu tạo chủ yếu là đất cát pha với độ kết dính giảm dần.
Chính vì đặc tính như trên nên nhìn chung, khả năng tan rã tự nhiên của tầng đất mặt ở Đồng bằng Ssông Cửu Long rất cao, độ cố kết và đàn hồi chịu đựng trước tác động của dòng chảy là rất hạn chế. Hơn nữa, sự ấm lên toàn cầu làm mực nước biển dâng trong khi nhiệt độ gia tăng lại khiến cho các dòng hải lưu bị biến đổi về phạm vi và cường độ di chuyển. Sự gia tăng lưu lượng nước biển do băng tan đã làm gia tăng lưu lượng và năng lượng dòng triều tác động vào bờ biển khi di chuyển. Trong bối cảnh này, sự tiếp xúc của các dòng hải lưu ven bờ tất yếu tạo ra những áp lực lớn vào thành bờ đưa đến sự bào mòn với quy mô lớn.
Vì vậy, đặc điểm địa chất non trẻ và đường bờ biển lồi lõm theo hướng đi của dòng biển, đã lý giải vùng cửa sông và ven biển từ Tiền Giang đến Mũi Cà Mau là nơi xâm thực của sóng biển. Ngoài ra, vấn đề khai thác cát quá mức trên các dòng sông có ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề sạt lở đất trên hệ thống sông, biển.
Đưa ra giải pháp bảo vệ bờ sông, biển, GS.TS Trần Đình Hoà cho rằng, cần có giải pháp cả về quản lý lẫn về kỹ thuật, kho hoạc công nghệ. Trong đó, các giải pháp về quản lý như: Nâng cao nhận thức cộng đồng; xây dựng cơ chế, chính sách, quy hoạch vùng; quản lý, khai thác rừng ngập mặn; tăng cường kiểm soát chặt chẽ việc khai thác cát....
Giải pháp kỹ thuật, kho hoạc công nghệ gồm: Nhóm giải pháp công trình cứng và nhóm giải pháp mềm. Trong đó, nhóm giải pháp công trình cứng bao gồm: Kè biển, kè mỏ hàn, đê ngầm phá sóng, kè mỏ hàn kết hợp đê ngầm phá sóng. Nhóm giải pháp mềm bao gồm: Nuôi bãi, trồng rừng ngập mặn, và đụn cát. Trong 1 số trường hợp có thể kết hợp cả 2 nhóm giải pháp. Hiện các nhóm giải pháp đã được thực hiện và đang tiếp tục triển khai trên các khu vực như bờ sông tại Cà Mau, kè bảo vệ bờ tại Vĩnh Hảo - Sóc Trăng; cấu kiện CT1 giảm sóng ở Gò Công -Tiền giang; kè bảo vệ bờ tại Gành Hào - Bạc Liêu,…
Theo GS.TS Trần Đình Hoà, trong giai đoạn vừa qua và trong ngắn hạn cần có các giải pháp công nghệ mới trong phòng chống sạt lở. Tuy nhiên, về dài hạn cần có các nghiên cứu mang tính tổng thể nhằm chủ động dự báo, cảnh báo, thích ứng với vấn đề sạt lở trên hệ thống sông, kênh (bảo vệ các khu vực quan trọng) và chủ động bảo vệ các khu vực bờ biển trọng yếu, chủ động quản lý, kiểm soát được rủi ro thiên tai.
Cụ thể như: Rà soát toàn bộ không gian quy hoạch đô thị, nông thôn có liên quan đến xói lở sông, kênh và bờ biển, theo hướng: Khu vực ven sông lớn, trục chính, từng bước bố trí lại dân cư, có đất cho bãi sông, đường, đê (cho nâng cấp sau này). Quản lý chặt chẽ đất đai, hành lang ven sông, kênh rạch. Chống xâm lấn kênh rạch, đặc biệt nơi có nguy cơ sạt lở, các tuyến tiêu thoát quan trọng.
Bên cạnh đó, quản lý các khu vùng đệm đới bờ biển (rừng, hạ tầng); tăng cường giám sát, cảnh báo, di dời dân cư, cần đẩy mạnh nghiên cứu các giải pháp cung cấp cát xây dựng và san lấp, các loại vật liệu thay thế. Ngoài ra, cần tăng cường liên kết vùng trong phòng chống sạt lở. Các quốc gia phải hợp tác chặt chẽ với nhau trong quản lý, khai thác nguồn nước sông Mekong.
Phát biểu kết luận Hội thảo, Thứ trưởng Nguyễn Hoàng Giang cảm ơn các ý kiến, đề xuất của các nhà khoa học tại Hội thảo và yêu cầu các Vụ quản lý ngành của Bộ Khoa học và Công nghệ tham khảo, chủ động đề xuất đặt hàng các nhiệm vụ về phòng, chống thiên tai để sớm thực hiện trong giai đoạn tới, góp phần giảm thiểu các thiệt hại do thiên tai, góp phần thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, định hướng phát triển kinh tế xã hội của các vùng trọng điểm.
Triều Phong
- Hội thảo “Chia sẻ Kinh nghiệm của Nhật Bản và Châu Âu trong Xác định định mức năng lượng cho Công trình NET ZERO” (24/09/2024)
- Phát động "Ngày Phụ nữ Thủ đô chung tay phân loại và xử lý rác thải" (23/09/2024)
- Tuổi trẻ Hà Tĩnh hưởng ứng chiến dịch làm cho thế giới sạch hơn (23/09/2024)
- Tuổi trẻ Tân Biên, Châu Thành (Trà Vinh): Ra quân thực hiện chiến dịch "Làm cho thế giới sạch hơn" (23/09/2024)
- Hà Nội: Phát huy sức trẻ, thanh niên Thủ đô làm sạch môi trường sau bão số 3 (19/09/2024)
- TPHCM: Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động người dân xây dựng khu dân cư “Sạch - xanh - thân thiện môi trường” (19/09/2024)
- Thiết kế không gian sống kết hợp làm việc (18/09/2024)
- Hội thảo Áp dụng mô hình thông tin công trình trong hoạt động xây dựng (18/09/2024)
- Thực trạng xử lý, thu gom và phân loại rác tại nguồn ở huyện đảo Cồn Cỏ (18/09/2024)
- Đánh giá khả năng làm việc của bê tông siêu cường độ trộn nhiều loại cốt sợi (18/09/2024)
- Thực trạng xử lý, thu gom và phân loại rác tại nguồn ở huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang (18/09/2024)
- Hà Giang: Mùa trăng ‘bảo vệ môi trường’ nơi địa đầu Tổ quốc (17/09/2024)
- Cần Thơ: Tổ chức các hoạt động hưởng ứng Chiến dịch làm cho thế giới sạch hơn năm 2024 (17/09/2024)
- Hà Nội: Tăng cường nhân lực xử lý rác thải, bảo đảm vệ sinh môi trường sau bão số 3 (16/09/2024)
- Huyện Dầu Tiếng (Bình Dương): Tỷ lệ rác thải sinh hoạt được thu gom, xử lý đạt 94,4% (16/09/2024)
- Vai trò của cộng đồng trong phân loại rác thải tại nguồn (16/09/2024)